Beagle là một giống chó săn nhỏ có ngoại hình tương tự như giống chó foxhound (chó săn cáo). Beagle là một giống chó săn bằng mùi hương, được nuôi chủ yếu để săn thỏ rừng (beagling). Sở hữu khứu giác tuyệt vời và bản năng lần theo dấu vết vượt trội, Beagle là giống chó được sử dụng làm chó nghiệp vụ ở sân bay để phát hiện nông sản và thực phẩm bị cấm trên toàn thế giới. Beagle rất thông minh. Nó là vật nuôi phổ biến vì kích thước vừa phải, tính khí tốt và không có các vấn đề sức khỏe di truyền.
Giống chó này được lai giống ở Anh vào khoảng những năm 1830 từ một số giống chó bao gồm: Talbot Hound, North Country Beagle, Southern Hound và có thể cả Harrier.
Beagles đã được mô tả bằng văn học và tranh vẽ thời Elizabeth, và gần đây là bằng phim ảnh, truyền hình và truyện tranh. Chú chó Snoopy trong tập truyện tranh Peanuts được gọi là “chú chó beagle nổi tiếng nhất thế giới”.
Beagle | |||
![]() | |||
Tên khác | English Beagle | ||
Nguồn gốc | Anh | ||
Đặc điểm | |||
Cân nặng | Đực | 22–25 lb (10.0–11.3 kg) | |
Cái | 20–23 lb (9.1–10.4 kg) | ||
Chiều cao | 13–16 in (33–41 cm) | ||
Lông | Lông ngắn, lông cứng dài vừa phải | ||
Màu sắc | Tam thể hoặc trắng kết hợp với đen & nâu vàng/nâu hoặc nâu/nâu vàng | ||
Tuổi thọ | 12–15 năm | ||
Phân loại / Tiêu chuẩn | |||
FCI (Tổ chức giống chó thế giới) | Nhóm 6, Mục 1.3 Chó săn bằng mùi hương: giống nhỏ # 161 | ||
AKC | Chó săn | ||
ANKC | Nhóm 4 (Chó săn) | ||
CKC | Nhóm 2 – Chó săn | ||
KC (Anh) | Chó săn | ||
NZKC | Chó săn | ||
UKC | Chó săn bằng mùi hương | ||
Giống chó nhà |
Lịch sử
Việc những con chó săn nhỏ được đề cập trong Luật Lâm Nghiệp của Canute đã cứu chúng khỏi sắc lệnh: những con chó có khả năng đuổi bắt loài nai nên bị cắt một chân. Nếu bộ luật này chính xác, những con chó beagle đã có mặt ở Anh trước năm 1016, nhưng có khả năng bộ luật này được viết vào thời Trung cổ để mang lại cảm giác cổ xưa và truyền thống.

Vào thế kỷ 11, William the Conqueror đã mang giống chó săn Talbot đến Anh. Talbot là loài chó săn bằng mùi, chủ yếu có màu trắng, chậm, cổ cao, được lại giống từ loài chó săn Hubert từ thế kỷ thứ 8. Giống chó Talbot ở Anh được lai với Greyhound để giúp chúng nhanh nhẹn hơn. Beagle có nét tương tự với giống chó Harrier và Southern Hound đã tuyệt chủng, mặc dù chúng nhỏ hơn và chậm hơn.
Từ thời trung cổ, từ “beagle” đã được sử dụng để mô tả chung những con chó săn nhỏ hơn, mặc dù những con chó này khác biệt đáng kể với giống chó hiện đại. Những giống chó nhỏ thuộc giống chó beagle được biết đến từ thời Vua Edward Đệ Nhị và Henry Đệ Thất: cả hai vị vua này đều có một vài bầy Glove Beagle, chúng được đặt tên như vậy vì chúng nhỏ đủ để nhét vào gang tay (glove) và Nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhất sở hữu một giống chó được gọi là Pocket Beagle chỉ cao từ 8 đến 9 inch (20 đến 23 cm) ở. Đủ nhỏ để nhét vào túi áo (pocket) hoặc túi ở yên ngựa, nên chúng cùng ngồi trên ngựa khi đi săn. Những con chó săn lớn sẽ chạy đuổi theo con mồi ở những vùng đất trống, sau đó các thợ săn sẽ thả những con chó nhỏ để tiếp tục cuộc rượt đuổi qua những bụi cây. Nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhất gọi những con chó của mình là “những chú beagle biết hát” và thường mua vui cho khách ngồi dùng bữa tại bàn ăn hoàng gia bằng cách để những chú Pocket Beagle của mình nhảy cẫng giữa những chiếc đĩa và cốc của chúng. Các nguồn thông tin từ thế kỷ 19 đề cập rằng tên của hai giống chó này có thể thay thế cho nhau và có thể đây chỉ là một giống chó duy nhất. Trong cuốn “Researches into the History of the British Dog” (Nghiên cứu về lịch sử các giống chó của Anh) của George Jesse từ năm 1866, nhà thơ và nhà văn đầu thế kỷ 17 Gervase Markham đã trích dẫn phần thông tin đề cập đến những con chó beagle đủ đủ nhỏ để ngồi trên tay một người đàn ông và:
Những con Beagle nhỏ như chiếc găng tay có thể phụ kiện không thể thiếu của chiếc váy các cô gái mặc, và trên cánh đồng chúng sẽ chạy một cách khôn ngoan như kỳ con chó săn khác, chỉ có tiếng động phát ra mới nhỏ như cây sậy đu đưa theo gió.
Các tiêu chuẩn cho Pocket Beagle đã được soạn thảo vào cuối năm 1901; những dòng di truyền này hiện đã tuyệt chủng, mặc dù các nhà nhân giống thời nay đã cố gắng tái tạo sự đa dạng của giống này.
Vào thế kỷ 18, hai giống chó sau đây được phát triển để săn thỏ rừng và thỏ: Southern Hound và North Country Beagle (hoặc Northern Hound). Southern Hound là giống con chó cao, nặng, có đầu vuông và đôi tai dài và mềm và là loài phổ biến từ phía nam sông Trent và có lẽ có liên quan mật thiết với chó săn Talbot. Mặc dù chậm, nó có sức chịu đựng và khả năng đánh hơi tuyệt vời. North Country Beagle có thể là được lai giữa Talbot và Greyhound, được lai tạo chủ yếu ở Yorkshire và phổ biến ở các quận phía bắc. Nó nhỏ hơn Southern Hound, có vóc dáng bé và có mõm nhọn hơn. Nó nhanh hơn so với Southern Hound nhưng khả năng đánh hơi của nó kém phát triển hơn. Khi việc săn cáo ngày càng trở nên phổ biến, số lượng của cả hai loại chó săn này giảm dần. Những con chó beagle được lai với những giống chó lớn hơn như Stag Hound để tạo ra giống Foxhound hiện nay. Các giống chó săn có kích cỡ giống beagle đã gần tuyệt chủng nhưng một số nông dân ở miền Nam duy trì sự tồn tại của các giống nguyên mẫu bằng cách duy trì các bầy chó săn thỏ nhỏ.
Sự phát triển giống chó hiện đại
Reverend Phillip Honeywood đã thành lập một bầy beagle ở Essex vào những năm 1830 và người ta tin rằng bầy chó này đã trở thành nền tảng cho giống chó hiện đại này. Mặc dù chi tiết cụ thể về dòng giống của bầy chó này không được ghi lại, người ta cho rằng chúng mang đặc điểm của giống North Country Beagle và Southern Hound; William Youatt nghi ngờ rằng Harrier đóng góp phần lớn trong huyết thống của beagle, nhưng chính nguồn gốc của Harrier cũng rất mơ hồ. Theo John Mills trong Thư viện Thể thao năm 1845, những con Beagles của Honeywood nhỏ, cao khoảng 10 inch (25 cm) và có màu trắng tinh khiết. Hoàng tử Albert và Lord Winterton cũng có các bầy Beagle trong khoảng thời gian này, và sự ưu ái của hoàng gia đã khiến mọi người quay lại quan tâm đến giống chó này, nhưng bầy chó của Honeywood được coi là tốt nhất trong ba bầy.

Mặc dù có công phát triển giống chó hiện đại, Honeywood tập trung vào việc sản xuất chó để săn bắn và Thomas Johnson phụ trách việc nhân giống để tạo ra những con chó vừa đẹp vừa có khả năng săn mồi. Hai chủng đã được phát triển: giống lông cứng và giống lông mịn. Giống beagle lông cứng tồn tại cho đến đầu thế kỷ 20, và thậm chí còn có những ghi chép lần tái xuất hiện của chúng tại một cuộc thi chó vào cuối năm 1969, nhưng giống này hiện đã tuyệt chủng, có lẽ đã được hấp thụ vào dòng máu beagle tiêu chuẩn.
Vào những năm 1840, một loại beagle tiêu chuẩn đã bắt đầu phát triển; sự khác biệt giữa North Country Beagle và Southern Hound đã biến mất, nhưng vẫn có sự khác biệt lớn về kích thước, tính tình và độ tin cậy giữa các bầy mới. Năm 1856, “Stonehenge” (bút danh của John Henry Walsh), viết trong Cẩm nang Thể thao Nông thôn Anh, vẫn đang chia beagles thành bốn loại: beagle trung bình; beagle cảnh, beagle cáo (một giống nhỏ hơn, chậm hơn của Foxhound); và beagle lông cứng hoặc terrier beagle – được phân loại là con lai giữa một giống bất kỳ với một trong những giống chó sục Scotland. Stonehenge cũng đưa ra bản mô tả tiêu chuẩn ban đầu: Beagle có kích thước từ 10 inch (hoặc thậm chí ít hơn) đến 15 inch. Về hình dạng, chúng giống với như phiên bản thu nhỏ của giống Southern Hound nhưng với sự gọn gàng và đẹp hơn; và chúng cũng có phong kiểu săn mồi giống với giống chó săn đó.
Đến năm 1887, mối đe dọa tuyệt chủng của giống chó này đã biến mất vì có đến 18 bầy beagle ở Anh. Câu lạc bộ Beagle được thành lập vào năm 1890 và bản tiêu chuẩn giống đầu tiên được đưa ra cùng lúc đó. Vào năm sau đó, “Hiệp hội các bậc thầy về giống chó Harrier và Beagle” được thành lập. Cả hai tổ chức đều có mục tiêu là đẩy mạnh lợi ích cho giống chó này và cả hai đều muốn sản xuất một giống beagle tiêu chuẩn. Đến năm 1902, số lượng bầy đã tăng lên 44.
Xuất khẩu
Beagles xuất hiện ở Mỹ muộn nhất là vào những năm 1840, nhưng những con chó đầu tiên được nhập khẩu chỉ để để săn bắn và có chất lượng khác nhau. Vì Honeywood chỉ mới bắt tay vào công việc nhân giống vào những năm 1830, nên những con chó này không thuộc giống chó hiện đại và chúng được mô tả giống như những con Dachshund chân thẳng với cái đầu yếu, khác với tiêu chuẩn bây giờ. Việc nỗ lực xây dựng một nòi giống chất lượng bắt đầu vào đầu những năm 1870 khi Tướng Richard Rowett từ Illinois nhập một số con chó từ Anh và bắt đầu cho nhân giống. Những chú chó Beagle của Rowett được cho là đã hình thành nên các mẫu tiêu chuẩn đầu tiên tại Mỹ, được tạo bởi Rowett, L. H. Twadell và Norman Ellmore vào năm 1887. Beagle được chấp nhận là một giống chó của Câu lạc bộ chó giống Mỹ (AKC) vào năm 1885. Trong thế kỷ 20, giống chó này đã phân bố rộng rãi trên toàn thế giới.
Sinh sản và nhân giống
Số lượng con con mỗi lứa của Beagle là sáu con. Khi chó mẹ sinh ra những lứa chó con, những con chó con chỉ nặng vài ounce.
Sự nổi tiếng

Khi thành lập, “Hiệp hội các bậc thầy về giống chó Harrier và Beagle” đã tiếp quản một cuộc thi chó thường niên tại Peterborough bắt đầu vào năm 1889 và Câu lạc bộ Beagle ở Anh đã tổ chức cuộc thi đầu tiên vào năm 1896. Việc giống chó này xuất hiện thường xuyên đã dẫn đến sự phát triển của một loại diện mạo được yêu thích, và beagle tiếp tục tiếp nối sự thành công cho đến khi Thế chiến I bùng nổ và tất cả các cuộc thi bị tạm hoãn. Sau chiến tranh, giống chó này một lần nữa phải đấu tranh để sinh tồn ở Anh: con cuối cùng của giống Pocket Beagle có lẽ đã chết trong thời gian này và số lượng đăng ký giảm xuống mức thấp nhất mọi thời đại. Một vài nhà nhân giống (đặc biệt là Reynalton Kennels) đã tìm cách hồi sinh sự yêu thích của công chúng với giống chó này và trong Thế chiến II, giống chó này lại trở nên nổi tiếng. Số lượng đăng ký một lần nữa sau khi chiến tranh kết thúc nhưng phục hồi gần như ngay lập tức.
Là một giống chó thuần chủng, Beagle luôn được ưa chuộng ở Mỹ và Canada hơn ở quê hương Anh. Câu lạc bộ Beagle Quốc gia của Mỹ được thành lập vào năm 1888 và đến năm 1901, một chú chó beagle đã giành được danh hiệu Best in Show. Cũng giống như ở Anh, các hoạt động trong thời kỳ Thế chiến I được giữ ở mức tối thiểu, nhưng giống chó này cho thấy sự hồi sinh mạnh mẽ hơn nhiều ở Mỹ khi chiến tranh chấm dứt. Vào năm 1928, giống chó đã giành được một số giải thưởng trong cuộc thi của Westminster Kennel Club (Câu lạc bộ chó giống Westminster) và đến năm 1939, một chú chó Beagle có tên là Champion Championlark Draraftman – đã giành được danh hiệu Chú chó Xuất sắc nhất nước Mỹ của năm. Vào ngày 12 tháng 2 năm 2008, một chú chó beagle tên là K-Run’s Park Me In First (Uno) đã giành chiến thắng ở hạng mục Best In Show tại cuộc thi của Westminster Kennel Club lần đầu tiên trong lịch sử. Ở Bắc Mỹ, chúng đã liên tục nằm trong top 10 những giống chó phổ biến nhất trong hơn 30 năm. Từ năm 1953 đến 1959, beagle được xếp hạng 1 trong danh sách các giống chó đã đăng ký của Hiệp hội chó giống Mỹ (the American Kennel Club); năm 2005 và 2006, nó đứng thứ 5 trong số 155 giống chó đã đăng ký. Ở Anh, chúng không quá nổi tiếng: xếp thứ 28 và 30 trong bảng xếp hạng các giống chó đã đăng ký với Câu lạc bộ chó giống trong năm 2005 và 2006. Tại Mỹ, Beagle xếp thứ 4 các giống phổ biến nhất vào năm 2012 và 2013, sau Labrador Retriever (#1), German Shepherd (#2) và Golden Retriever (#3).
Tên gọi
Theo Từ điển tiếng Anh Oxford, từ beagle lần đầu tiên được đề cập trong văn học Anh vào khoảng năm 1475 trong Squire of Low Degree. Nguồn gốc của từ “beagle” không rõ ràng, mặc dù có ý kiến cho rằng từ này xuất phát từ tiếng Pháp.
Chưa rõ lý do tại sao Kerry Beagle đen và nâu xuất hiện ở Ireland kể từ thời Celtic, và nó được miêu tả cao khoảng từ 22 đến 24 inch (56 đến 61 cm), nó cao hơn đáng kể so với beagle thời hiện đại, và có thể to hơn trong các thời kỳ trước đó. Một số tác giả cho rằng khả năng đánh hơi của beagle có thể đến từ các giống lai trước đó với Kerry Beagle. Ban đầu chúng được sử dụng để săn hươu, và ngày nay được sử dụng để săn thỏ và bộ môn thể thao săn bắn.
Đặc điểm
Ngoại hình

Ngoại hình của beagle giống như phiên bản nhỏ của giống Foxhound, nhưng đầu rộng hơn và mõm ngắn hơn, biểu cảm hoàn toàn khác biệt và đôi chân ngắn hơn so với cơ thể. Chúng thường cao từ 13 đến 16 inch (33 đến 41 cm) và nặng từ 18 đến 35 lb (8.2 đến 15.9 kg); và trung bình, con cái nhỏ hơn con đực một chút.
Chúng có hộp sọ nhẵn, hơi vòm với mõm vuông, dài và mũi màu đen (hoặc đôi khi là màu nâu đậm). Hàm khỏe và hai hàm răng trên và dưới khớp hoàn hảo và vuông góc với hàm. Đôi mắt to, màu lục nhạt hoặc nâu, với một cái nhìn khẩn khoản giống như chó săn. Đôi tai lớn dài, mềm mại và thấp, hơi hướng về phía má và tròn ở đầu mút. Beagle có chiếc cổ mạnh mẽ, độ dài trung bình (đủ dài để chúng dễ dàng cúi xuống đất để đánh hơi mùi hương), với một ít nếp gấp trên da gần giống yếm; một bộ ngực rộng, thu hẹp dần xuống bụng và eo thon và một cái đuôi dài, hơi cong (được gọi là “đuôi tàu”) có đỉnh màu trắng. Phần đuôi trắng được gọi là lá cờ – đặc điểm đã được lai tạo có chọn lọc, giúp con người dễ dàng nhìn thấy chúng khi chúng cúi đầu xuống đánh hơi. Đuôi không cong lên phía lưng, nhưng được dựng thẳng khi chúng hoạt động. Beagle có thân hình cơ bắp và bộ lông dài vừa phải và mịn. Chân trước thẳng còn chân sau thì cơ bắp và uốn cong khuỷu chân sau.
Màu sắc
Beagle tam thể – lông màu trắng với mảng lớn lớn màu đen và phần viền màu nâu nhạt là phổ biến nhất. Beagles tam thể có rất nhiều bộ màu, từ “Tam thể điển hình” với mảng lông trên lưng màu đen tuyền (còn được gọi là “Blackback”), đến “Tam thể đậm màu” (trong đó các vệt màu nâu mờ nằm xen kẽ với các vệt đen nổi bật hơn), “Tam thể nhạt màu” (trong đó các vệt đen mờ xen kẽ với các vệt nâu nổi bật hơn). Một số con chó tam thể có màu lông không theo những hình thái trên, được gọi là màu “pied” (khoang). Những con chó này có bộ lông nền màu trắng với những mảng lông đen và nâu. Beagle tam thể hầu như luôn luôn có màu màu đen và trắng. Các vùng lông màu trắng thường được hình thành khi tám tuần tuổi, nhưng các vùng lông màu đen có thể mờ dần sang màu nâu khi chó con trưởng thành. (Những vùng lông màu nâu có thể mất từ một đến hai năm để phát triển đầy đủ.) Một số con có bộ lông đổi màu theo năm tháng và màu đen có thể biến mất hoàn toàn.

Màu lông nhị thể luôn có màu nền trắng với các mảng màu thứ hai. Nâu nhạt và trắng là màu lông nhị thể phổ biến nhất, nhưng có một loạt các tổ hợp màu khác bao gồm màu vàng chanh, màu nâu rất nhạt; đỏ, đỏ cam, nâu; và nâu sẫm, màu nâu đen và đen. Màu nâu sẫm không phổ biến và một số nơi không coi đó là màu tiêu chuẩn và nó thường xuất hiện cùng với mắt màu vàng. Lông đốm có thể có màu trắng hoặc đen với các đốm màu khác nhau, chẳng hạn như beagle đốm xanh: có những đốm có màu xanh tím than tương tự như màu của giống Bluetick Coonhound. Một số con beagle tam thể cũng có những chấm màu khác nhau ở vùng lông màu trắng của chúng.
Khứu giác
Giống như giống Bloodhound và Basset Hound, beagle có một trong những giống chó có khứu giác phát triển nhất. Vào những năm 1950, John Paul Scott và John Fuller bắt đầu một nghiên cứu kéo dài 13 năm về hành vi của chó. Là một phần của nghiên cứu này, họ đã kiểm tra khả năng đánh hơi của nhiều giống chó khác nhau bằng cách đưa một con chuột vào một cánh đồng rộng một mẫu và tính thời gian những con chó cần để tìm thấy nó. Beagle đã tìm thấy con chuột trong vòng chưa đầy một phút, trong khi Fox Terrier mất 15 phút và Scotland Terrier không tìm thấy nó. Beagle nhận biết mùi hương trên mặt đất tốt hơn (theo dấu mùi hương trên mặt đất) so với ngửi trong không khí, và vì lý do này, chúng đã bị loại khỏi hầu hết các đội cứu hộ trên núi và thay bằng các giống collie, vì chúng sử dụng sử dụng cả khả năng quan sát và khứu giác và dễ bảo hơn. Đôi tai dài và đôi môi lớn của beagle có thể hỗ trợ trong việc giữ lại những mùi hương gần mũi.
Sự biến thể
Biến thể giống
Câu lạc bộ Chó giống Mỹ chia giống beagle thành hai loại: loại 13 inch cho chó săn nhỏ hơn 13 inch (33 cm) và 15 inch cho những con từ 13 đến 15 inch (33 đến 38 cm). Câu lạc bộ Chó giống Canada công nhận một loại duy nhất, với chiều cao không quá 15 inch (38 cm). Câu lạc bộ Chó giống (Anh) và các câu lạc bộ liên kết với FCI (Tổ chức giống chó thế giới) công nhận một loại duy nhất, với chiều cao từ 13 đến 16 inch (33 đến 41 cm).

Những giống lai ở Anh và Mỹ đôi khi cũng được biết tới. Tuy nhiên, không có sự công nhận chính thức từ bất kỳ Câu lạc chó giống nào cho sự khác biệt này. Những chú chó Beagle phù hợp với tiêu chuẩn Câu lạc bộ Chó giống Mỹ (không cao quá 15 inch (38 cm)) nhỏ hơn những con phù hợp với tiêu chuẩn Câu lạc bộ Chó giống Anh(có thể cao đến 16 inch (41 cm)).
Pocket Beagle đôi khi vẫn được quảng cáo để bán và trong khi Câu lạc bộ Chó giống Anh đã công bố tiêu chuẩn cho Pocket Beagle vào năm 1901, hiện nay giống này không được bởi bất kỳ Câu lạc bộ Chó giống nào.
Chủng Patch Hound được nhân giống bởi Willet Randall và gia đình từ năm 1896 vì khả năng săn thỏ của chúng. Huyết thống của chúng có thể bắt nguồn từ Field Champion Patch, nhưng không nhất thiết phải có dấu hiệu của giống này.
Giống lai
Vào những năm 1850, Stonehenge đã khuyên nên sử dụng giống lai giữa Beagle và Scotland Terrier làm chó tha mồi. Anh ta nhận thấy giống lai này làm việc hiệu quả, yên lặng và ngoan ngoãn, nhưng có một nhược điểm là nó nhỏ và gần như không thể tha được thỏ rừng.
Gần đây, “designer dogs” (chó lai)chính là xu hướng mới và một trong những giống phổ biến nhất là con lai của Beagle và Pug được gọi là Puggle. Một vài con thuộc giống chó này không nghịch như Beagle và không cần vận động nhiều giống Pug; nhưng nhiều vẫn dễ bị kích động và cần hoạt động nhiều.
Bản tính
Beagle có tính cách bình tĩnh và nhẹ nhàng. Chúng được mô tả trong một số tiêu chuẩn giống là “vui vẻ”, chúng đáng yêu và thường không hung dữ cũng không rụt rè, mặc dù điều này phụ thuộc vào từng cá thể. Chúng thích ở cùng con người, và mặc dù ban đầu chúng có thể không thân thiện với người lạ, nhưng chúng rất dễ làm thân. Chính vì lý do này nên chúng không thể làm chó gác, mặc dù chúng có khuynh hướng sủa hoặc hú khi đối mặt với những người không quen. Trong một nghiên cứu năm 1985 được thực hiện bởi Ben và Lynette Hart, beagle được đánh giá là có tính cách dễ bị khích động nhất, cùng với Yorkshire Terrier, Cairn Terrier, Miniature Schnauzer, West Highland White Terrier và Fox Terrier.
Beagle rất thông minh, vì được nhân giống để rượt đuổi quãng đường dài nên chúng rất tập trung và quyết đoán, điều này có thể khiến chúng khó huấn luyện. Khó có thể gọi chúng quay lại khi chúng bắt được mùi, và chúng dễ bị phân tâm bởi mùi xung quanh. Chúng thường không tham gia những vòng thi obedience (vâng lời); tuy chúng rất tỉnh táo, đáp ứng tốt việc huấn luyện khen thưởng bằng đồ ăn và có mong muốn làm hài long chủ, chúng lại rất dễ chán hoặc mất tập trung. Chúng được xếp hạng thứ 72 trong cuốn The Intelligence of Dogs của Stanley Coren, vì Coren xếp chúng trong nhóm có mức độ trí khôn lao động /vâng lời thấp nhất. Tuy nhiên, thang điểm của Coren không đánh giá sự hiểu biết, tính độc lập hoặc sáng tạo.

Beagle rất phù hợp với trẻ em và đây là một trong những lý do chúng đã trở thành vật nuôi gia đình phổ biến. Nhưng vì beagle là loài quen sống theo bầy đoàn nên chúng dễ mắc phải chứng lo lắng phân tách, khiến chúng phá hủy mọi thứ khi không được chăm sóc. Không phải tất cả các con beagle đều hú, nhưng hầu hết chúng sẽ sủa khi đối mặt với các tình huống lạ, và một số sẽ rú lên (còn được gọi là “nói”, “uốn lưỡi” hoặc “mở miệng”) khi chúng bắt gặp mùi hương của con mồi tiềm năng. Chúng cũng thường rất hợp với mèo và những con chó khác. Chúng không quá đòi hỏi về việc tập thể dục; do sức chịu đựng cao nên chúng không dễ dàng mệt mỏi khi tập thể dục, nhưng chúng cũng không cần phải hoạt động đến kiệt sức trước khi nghỉ ngơi. Tập thể dục thường xuyên giúp tránh tăng cân – triệu chứng giống chó này dễ mắc phải.
Sức khỏe

Tuổi thọ của beagle là khoảng từ 12 đến 15 năm và là mốc phổ biến của những giống chó có cùng kích thước.
Beagle dễ bị động kinh, nhưng có thể được kiểm soát bằng thuốc. Chúng có thể bị suy giáp và bệnh lùn tuyến yên. Hai triệu chứng mà giống chó dễ gặp phải là “Funny Puppy” – chó con chậm phát triển và khi trưởng thành có chân yếu, lưng vẹo và mặc dù khỏe mạnh bình thường và dễ mắc một số bệnh; và Hội chứng Musladin-Lueke: mắt bị xếch và các ngón chân bên ngoài kém phát triển nhưng các bộ phận khác phát triển bình thường. Chứng loạn sản xương hông thường gặp ở Harrier và ở một số giống lớn hơn nhưng hiếm khi được phát hiện ở beagle. Beagle được coi là một giống chondrodystrophic, có nghĩa là chúng dễ bị các loại bệnh đĩa đệm.

Trong một số ít trường hợp, beagle có thể bị viêm khớp đa gen qua trung gian miễn dịch (hệ thống miễn dịch tấn công các khớp) ngay cả khi còn bé. Các triệu chứng đôi khi có thể thuyên giảm bằng phương pháp điều trị steroid. Một bệnh hiếm gặp khác ở giống này là suy sản tiểu não. Những con con bị bệnh này sẽ trở nên chậm chạp, khả năng phối hợp kém, hay ngã và dáng đi không bình thường. Tỉ lệ mang bệnh ước tính vào khoảng 5% và tỷ lệ bị ảnh hưởng là 0,1%. Có thể làm kiểm tra gen để phát hiện bệnh.
Vì đôi tai mềm và gập xuống nên tai trong không nhận được nhiều không khí hoặc không khí trong tai trở nên ẩm và điều này có thể dẫn đến nhiễm trùng tai. Beagle cũng có thể bị ảnh hưởng bởi một loạt các vấn đề về mắt; hai loại bệnh về mắt phổ biến ở beagle là bệnh tăng nhãn áp và loạn dưỡng giác mạc. Bệnh mộng mắt – sự phát triển của tuyến mí mắt thứ ba và chứng loạn sắc tố, một tình trạng lông mi mọc vào mắt gây ra kích ứng, đôi khi cũng xuất hiện ở giống chó này; cả hai chứng bệnh này có thể chữa bằng cách phẫu thuật. Chúng có thể bị một số triệu chứng teo võng mạc. Tuyến lệ không hoạt động tốt có thể gây khô mắt hoặc chảy nước mắt.
Là chó lao động ngoài trời, chúng dễ bị thương nhẹ như trầy xước và bong gân, và nếu không hoạt động, chúng sẽ dễ trở nên béo phì vì chúng sẽ ăn bất cứ khi nào có thức ăn và dựa vào chủ phải là người điều chỉnh cân nặng của chúng. Khi làm việc hoặc chạy tự do, chúng cũng có khả năng bị ký sinh trùng như bọ chét, ve, ve mò và sán dây và các vật có thể gây kích ứng như hạt cỏ có thể bị mắc trong mắt, tai hoặc bàn chân.
Beagle có thể có biểu hiện được gọi là hắt hơi ngược, khi đó chúng có vẻ như bị nghẹn hoặc thở hổn hển, nhưng thực sự là hút không khí qua miệng và mũi. Nguyên nhân của biểu hiện này chưa được xác định, nhưng nó cũng khá phổ biến và không gây hại.
Săn bắt

Beagle được nhân giống chủ yếu để săn thỏ rừng – một hoạt động được gọi là “beagling”. Chúng được xem là người bạn đồng hành lý tưởng cho mọi đối tượng. Trước sự ra đời lối săn cáo thời thượng vào thế kỷ 19, săn bắn là một hoạt động kéo dài cả ngày, nơi sự thích thú bắt nguồn từ cuộc rượt đuổi chứ không phải là giết chóc. Vì vậy, một con beagle nhỏ rất phù hợp với cuộc săn thỏ rừng, vì không giống như Harrier, chúng sẽ không nhanh chóng kết thúc cuộc săn, nhưng vì kỹ năng theo dõi mùi hương tuyệt vời và sức chịu đựng của chúng, chúng gần như chắc chắn sẽ bắt được con mồi. Các bầy beagle sẽ chạy sát nhau (“gần đến mức chúng có thể được che bằng một tấm vải”), phù hợp với một cuộc đi săn dài, vì nó ngăn những con chó đi tách đoàn che khuất đường mòn. Với những cuộc đi săn gà lôi ở địa hình cây bụi dày, giống Spaniel được sử dụng nhiều hơn Beagle.
Khi những cuộc đi săn ngắn trở thành trào lưu, beagle không được ưa chuộng trong các cuộc săn thỏ rừng nữa, nhưng vẫn được sử dụng để săn thỏ. Trong cuốn Anecdotes of Dogs (1846), Edward Jesse viết:
Khi săn thỏ trong địa hình dày cây cối, beagle là một lựa chọn phù hợp nhất. Chúng dễ dàng bắt được tiếng động trong khoảng cách xa và địa hình dày đặc. Chúng được gọi là thỏ-beagle vì chúng đặc biệt giỏi công việc này, đặc biệt là những con chó có lông cứng.

Ở Mỹ, chúng dường như được sử dụng chủ yếu để săn thỏ từ những ngày đầu đặt chân đến đây. Săn thỏ bằng beagle trở nên phổ biến trở lại ở Anh vào giữa thế kỷ 19 và tiếp tục cho đến khi nó bị coi là bất hợp pháp ở Scotland bởi Đạo luật Bảo vệ Động vật Hoang dã (Scotland) năm 2002 và ở Anh và Wales bởi Đạo luật Săn bắn 2004. Theo đạo luật này, beagle vẫn có thể đuổi bắt thỏ với sự cho phép của địa chủ. Bộ môn “drag hunting” trở nên phổ biến khi việc săn bắn bị cấm hoặc đối với những người chủ không muốn tham gia săn bắn động vật sống, nhưng vẫn muốn luyện tập cho những con chó của họ những kỹ năng bẩm sinh.
Theo truyền thống, một bầy sẽ bao gồm tới 40 con beagle, được điều khiển và chỉ đạo bởi một Huntsman (thợ săn) và một vài người thợ phụ cầm theo roi để điều hướng những con chó tách đoàn. The Master of the Hunt (Chủ nhân Cuộc săn bắt) sẽ chịu trách nhiệm tổng thể bầy chó hàng ngày, và có thể đảm nhận vai trò của Huntsman trong ngày săn bắn hoặc không.
Vì săn bắt bằng beagle được xem là lý tưởng cho những người trẻ tuổi, nhiều trường công lập ở Anh có truyền thống nuôi các bầy beagle. Các cuộc biểu tình đã được tổ chức để chống lại việc sử dụng beagle của trường Eton vào đầu năm 1902 nhưng truyền thống này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay và bầy chó của trường đại học Imperial ở Wye, Kent đã bị Mặt trận Giải phóng Động vật đánh cắp vào năm 2001. Các trường vẫn duy trì truyền thống này bao gồm: Eton, Marlborough, Wye, Radley, Đại học Nông nghiệp Hoàng gia và Christ Church ở Oxford.
Ngoài việc sử dụng trong beagling, beagle đã được sử dụng để săn bắn hoặc xả súng (thường theo cặp) một loạt các loài động vật bao gồm thỏ tuyết, thỏ đuôi bông, các giống gà, hoẵng, hươu đỏ, linh miêu, chó sói, lợn rừng và cáo và thậm chí đã được ghi nhận là được sử dụng để săn chồn ecmin. Trong hầu hết các trường hợp này, beagle được sử dụng như một con chó nhặt mồi, nhặt những con thú bị bắn chết.
Chó nghiệp vụ

Beagles được sử dụng làm chó nghiệp vụ trong Lữ đoàn Beagle thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ. Những con chó này được sử dụng để phát hiện các mặt hàng thực phẩm trong hành lý được đưa vào Mỹ. Sau khi thử nghiệm một số giống chó, beagle đã được chọn vì chúng tương đối nhỏ và hiền lành, phù hợp với những người không thích chó, dễ chăm sóc, thông minh và thích làm tốt nhiệm vụ để nhận phần thưởng. Chúng cũng được sử dụng làm chó nghiệp vụ ở một số quốc gia khác, bao gồm Bộ Nông nghiệp và Lâm nghiệp ở New Zealand, Dịch vụ Kiểm tra và Kiểm dịch Úc, và ở Canada, Nhật Bản và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Các giống lớn hơn thường được sử dụng để phát hiện chất nổ vì công việc này cần phải trèo qua hành lý và trên băng chuyền lớn, không phù hợp với giống Beagle vì kích thước nhỏ bé của chúng.
Thí nghiệm
Beagle là giống chó thường được sử dụng để thử nghiệm sản phẩm, do kích thước và bản chất thụ động của chúng. Tại Mỹ, có tới 65.000 con beagle được sử dụng hàng năm cho các thí nghiệm y tế, mỹ phẩm, làm đẹp và các xét nghiệm hóa học khác. Chúng được nhân giống và sống trong những chiếc lồng thí nghiệm.Dự án Cứu hộ + Tự do (trước đây là Dự án Tự do cho Beagle) đã ủng hộ thành công việc giải phóng beagle khỏi các phòng thí nghiệm. Tổ chức này đã giải phóng hàng trăm động vật.
Beagle được sử dụng trong một loạt các quy trình nghiên cứu: nghiên cứu sinh học cơ bản, nhân y dược ứng dụng, thú y dược ứng dụng và bảo vệ con người, động vật hoặc môi trường. Trong số 8.018 con chó được sử dụng trong việc thử nghiệm ở Anh năm 2004, có 7,799 con là beagle (97,3%). Ở Anh, Đạo luật Động vật (Quy trình Khoa học) năm 1986 đã công bố tình trạng đặc biệt cho các loài linh trưởng, ngựa, chó và năm 2005, Ủy ban Quy trình Động vật (được thiết lập bởi đạo luật) đã ra phán quyết rằng thử nghiệm trên chuột là thích hợp hơn, mặc dù các loài khác có số lượng tham gia lớn hơn. Trong năm 2005, beagle đã tham gia ít hơn 0,3% trong tổng số thí nghiệm trên động vật ở Anh, nhưng trong số 7670 thí nghiệm được thực hiện trên chó thì có 7406 ca sử dụng beagle (96,6%). Hầu hết chúng được nhân giống bởi các công ty như Harlan với mục đích thí nghiệm. Ở Anh, các công ty nhân giống động vật phục vụ nghiên cứu phải được cấp phép theo Đạo luật Động vật (Quy trình khoa học).
Việc thử nghiệm các sản phẩm mỹ phẩm trên động vật bị cấm ở các quốc gia thành viên của Cộng đồng châu Âu cho dù Pháp phản đối lệnh cấm và đã nỗ lực để dỡ bỏ nó.Quy trình này được cho phép ở Mỹ nhưng không bắt buộc có thể kiểm định bằng các phương pháp khác và các loài động vật dùng để thử nghiệm không được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) nêu rõ. Khi kiểm tra độc tính của phụ gia thực phẩm, chất gây ô nhiễm thực phẩm, và một số loại thuốc và hóa chất, FDA sử dụng beagle và heo cảnh để thử nghiệm thay thế cho con người. Minnesota là tiểu bang đầu tiên ban hành luật tự do cho Beagle vào năm 2014, chó và mèo sau khi hoàn thành thí nghiệm có thể được nhận nuôi.
Các nhóm phản đối thí nghiệm trên động vật đã báo cáo về việc lạm dụng động vật tại các cơ sở thí nghiệm. Năm 1997, đoạn phim bí mật được quay bởi một nhà báo tự do bên trong tổ chức Huntingdon Life Science ở Anh cho thấy các nhân viên đấm và quát mắng những chú chó beagle. Consort Kennels, một trụ sở nhân giống beagles phục vụ cho việc thí nghiệm tại Anh đã đóng cửa vào năm 1997 vì bị áp lực từ các nhóm bảo vệ động vật.
Những vai trò khác
Mặc dù được nhân giống để phục vụ mục đích săn bắn, Beagle rất đa năng và ngày nay được sử dụng cho nhiều vai trò khác như chó nghiệp vụ, trị liệu và làm vật nuôi trong gia đình.
Beagle được sử dụng làm chó đánh hơi để phát hiện mối ở Úc, và có thể phát hiện ma túy và thuốc nổ. Do bản chất hiền lành và ngoại hình thân thiện, chúng cũng thường được sử dụng trong hoạt động trị liệu bằng thú cưng, thăm bệnh nhân và người già trong bệnh viện. Vào tháng 6 năm 2006, một con chó hỗ trợ giống Beagle được huấn luyện đã được ghi nhận là đã cứu mạng chủ của nó sau khi sử dụng điện thoại di động của chủđể quay số khẩn cấp. Sau hậu quả của trận động đất ở Haiti năm 2010, một chú chó tìm kiếm và cứu hộ là Beagle với đội cứu hộ Colombia đã giải cứu chủ sở hữu của khách sạn Hôtel Montana sau 100 giờ bị chôn vùi trong đống đổ nát. Beagle được thành phố New York thuê để giúp phát hiện rệp, trong khi những con chó có cùng chức năng này không được chọn.
Trong văn hóa

- Beagle xuất hiện trong truyện tranh về động vật và phim hoạt hình từ những năm 1950 với bộ phim Courage the Cowardly Dog và nhân vật Snoopy trong truyện Peanuts được quảng cáo là “chú chó Beagle nổi tiếng nhất thế giới”.
- Cựu Tổng thống Mỹ Lyndon Baines Johnson sở hữu một vài con beagle và hành động ông nắm tai nhấc chúng lên trong một sự kiện chính thức trên bãi cỏ Nhà Trắng đã gây ra một làn sóng phản đối.
- Con tàu có tên là “HMS Beagle”mà Charles Darwin dùng trong chuyến đi đã tạo cảm hứng cho ông sáng tác nên “On the Origin of Species” được đặt tên theo tên của giống chó này, và sau đó là con tàu xấu số của Anh đổ bộ vào sao Hỏa –“Beagle 2”.
- Một con chó Beagle Mỹ đực 15 inch được đăng ký dưới cái tên Ch K-Run’s Park Me In First và thường được gọi là “Uno” đã giành chiến thắng tại Westminster Kennel Club Dog Show(Cuộc thi chó của câu lạc bộ Westminster) năm 2008.
- Một con chó Beagle Canada cái 15 inch đượcđăng ký dưới cái tên Gr Ch Tashtins Lookin For Trouble và thường được gọi là “Miss P” đã giành chiến thắng tại Westminster Kennel Club Dog Show (Cuộc thi chó của câu lạc bộ Westminster) năm 2015.
Những chú chó Beagle nổi tiếng
- Chú chó Frodo được trao Huy chương vàng PDSA vì sự dũng cảm
- Uno, chú chó Beagle đầu tiên giành chiến thắng tại Westminster Kennel Club Dog Show năm 2008
- Miss P, chú chó chiến thắng Westminster Kennel Club Dog Show 2015
Mila –
Hello do you have beagle puppies?
Tùng Lộc Pet –
Hi, Mila, I’ve got a few puppies of beagle! Please contact me: 0826880528
hiếu –
1 bé beagle bao nhiêu tiền vậy bạn