Maine Coon là giống mèo nhà lớn nhất. Nó có một ngoại hình đặc biệt và kỹ năng săn mồi quý báu. Đây là một trong những giống mèo tự nhiên lâu đời nhất ở Bắc Mỹ, chúng có nguồn gốc từ tiểu bang Maine và là giống mèo đại diện cho tiểu bang này.
Nguồn gốc chính xác của Maine Coon và ngày chúng xuất hiện ở Mỹ chưa được xác định rõ, vì vậy một số giả thuyết đã được đề xuất và giả thuyết đáng tin cậy nhất là giống mèo này có liên quan chặt chẽ với mèo rừng Na Uy và Siberia. Giống mèo này phổ biến trong các cuộc thi dành cho mèo vào cuối thế kỷ 19, nhưng sự tồn tại của nó đã bị đe dọa khi các giống mèo lông dài khác được nhập khẩu từ nước ngoài vào đầu thế kỷ 20. Maine Coon đã lấy lại vị thế và hiện là một trong những giống mèo phổ biến nhất ở Mỹ.
Maine Coon là một giống mèo lớn và hòa đồng, do đó chúng có biệt danh là “người khổng lồ hiền lành”. Đặc điểm đặc trưng của chúng là một lớp lông nổi bật dọc theo ngực, cấu trúc xương chắc khỏe, khung cơ thể hình chữ nhật, một lớp lông hai lớp không đều nhau với những sợi lông bảo vệ dài ở ngoài lớp lông tơ mượt và đuôi dài, rậm rạp. Màu sắc của giống này khá đa dạng và chỉ có màu hoa cà và sô cô la không được phép có trong phả hệ. Nổi tiếng về trí thông minh và tính cách vui tươi, hiền lành, Maine Coon thường được coi là có đặc điểm “giống chó”. Các chuyên gia nhận thấy một số vấn đề sức khỏe thường gặp ở giống này, bao gồm bệnh phì đại cơ tim và bệnh loạn sản xương hông, nhưng các nhà nhân giống có uy tín sử dụng các phương pháp sàng lọc hiện đại để giảm thiểu tần suất của những chứng bệnh này.
Một con Maine Coon Polydactyl là một con mèo Maine Coon bị dị tật thừa ngón. Chứng biến dạng này được chấp nhận trong các tiêu chuẩn đánh giá chung cho giống và thậm chí còn được chứng nhận riêng bởi một số tổ chức như TICA.
Maine Coon | |
![]() | |
Tên khác | Mèo Coon Mèo Maine Maine Shag |
Biệt danh | Người khổng lồ hiền lành |
Nguồn gốc | Maine, Mỹ |
Mèo nhà |
Lịch sử
Nguồn gốc
Nguồn gốc tổ tiên của Maine Coon chưa xác định, hiện chỉ có những giả định và những câu chuyện dân gian về giống mèo này. Có một câu chuyện dân gian liên quan đến Marie Antoinette, Nữ hoàng Pháp, người đã bị xử tử năm 1793. Câu chuyện kể rằng trước khi chết, Antoinette đã cố gắng trốn thoát khỏi Pháp với sự giúp đỡ của Đại úy Samuel Clough. Bà đã chất lên con tàu của Clough những tài sản quý giá nhất của mình, bao gồm sáu con mèo Turkish Angora (có thể là Siberian) yêu thích của bà. Mặc dù bà không đến được Mỹ, nhưng những con thú cưng của bà đã đến bờ biển Wiscasset, Maine một cách an toàn, nơi chúng được lai tạo với các giống mèo lông ngắn khác và phát triển thành giống mèo Maine Coon hiện đại.
Các cuộc thi và sự nổi tiếng
Lần đầu mèo Maine Coon được đề cập trong một tác phẩm văn học là vào năm 1861, trong cuốn sách The Cat of the Cat (1903) của Frances Simpson. F.R. Pierce, người sở hữu một vài con Maine Coon, đã viết một chương về giống mèo này. Vào cuối những năm 1860, những người nông dân ở Maine đã kể những câu chuyện về những con mèo của họ và tổ chức cuộc thi “Maine State Champion Coon Cat” (Cuộc thi dành cho mèo Coon toàn bang Maine) tại Hội chợ Skowhegan địa phương.
Năm 1895, một tá Maine Coon đã được tham dự một cuộc thi ở Boston. Vào ngày 8 tháng 5 năm 1895, cuộc thi mèo Bắc Mỹ đầu tiên được tổ chức tại Madison Square Garden ở thành phố New York. Một con Maine Coon cái có màu nâu tabby tên là Cosey đã tham gia cuộc thi. Chú mèo Cosey của bà Fred Brown đã giành được chiếc vòng cổ và huy chương bạc và được vinh danh với danh hiệu “Best in Show”. Quỹ Hiệp Hội Những Người Yêu Thích Mèo (CFA) mua chiếc vòng cổ bạc với khoản quyên góp từ National Capital Cat Show. Chiếc vòng cổ được đặt tại Văn phòng Trung tâm CFA trong Thư viện Tưởng niệm Jean Baker Rose.

Vào đầu thế kỷ 20, sự phổ biến của Maine Coon bắt đầu giảm khi bắt đầu xuất hiện các giống mèo lông dài khác, chẳng hạn như mèo Ba Tư, có nguồn gốc ở Trung Đông. Chú mèo Maine Coon cuối cùng thắng giải trong một cuộc thi mèo quốc gia trong hơn 40 năm là vào năm 1911 tại một cuộc thi ở Portland, Oregon. Sau đó, giống này hiếm xuất hiện rộng rãi. Sự suy giảm nghiêm trọng đến mức giống mèo này đã được tuyên bố là tuyệt chủng vào những năm 1950, mặc dù tuyên bố này được coi là phóng đại và được cho là quá sớm vào thời điểm đó. Câu Lạc Bộ Mèo Maine Trung Ương (CMCC) được Ethylin Whittemore, Alta Smith và Ruby Dyer thành lập vào đầu những năm 1950 nhằm tăng sự phổ biến của Maine Coon. Trong 11 năm, CMCC đã tổ chức các cuộc thi trình diễn mèo và tổ chức triển lãm các bức ảnh của giống mèo này và được ghi nhận là đã tạo ra các tiêu chuẩn giống đầu tiên cho Maine Coon.
Maine Coon đã bị CFA từ chối tình trạng giống tạm thời ba lần (một trong ba bước cần thiết cho một giống mèo chưa được CFA công nhận để có thể cạnh tranh trong các cuộc thi vô địch), dẫn đến sự hình thành của Câu lạc bộ mèo Maine Coon vào năm 1973. Giống mèo này cuối cùng đã được CFA chấp nhận tình trạng tạm thời vào ngày 1 tháng 5 năm 1975 và được chấp thuận tham gia thi đấu vào ngày 1 tháng 5 năm 1976. Trong vài thập kỷ tiếp theo, giống mèo này càng trở nên nổi tiếng, rất nhiều con đã đạt chức vô địch chiến thắng và thứ hạng quốc gia của giống mèo này đã tăng. Năm 1985, tiểu bang Maine tuyên bố rằng giống mèo này sẽ là giống mèo đại diện của bang này. Ngày nay, Maine Coon là giống mèo phổ biến thứ ba, tính theo số lượng mèo con được đăng ký với CFA

Đặc điểm
Màu lông
Maine Coon là một giống mèo lông dài hoặc trung bình. Bộ lông mềm và mượt, mặc dù kết cấu có thể thay đổi theo màu lông. Lông đầu và vai ngắn và lông bụng thì dài hơn, một số con có lông xù giống như sư tử quanh cổ. Chúng không cần chải chuốt nhiều khi so với các giống lông dài khác, vì chúng có thể tự chăm sóc do bộ lông lót mỏng. Bộ lông có thể thay đổi theo mùa, mùa đông có thể trở nên dày hơn và mùa hè thì mỏng hơn.
Maine Coon có tất cả các màu lông mà các giống khác có. Những màu sắc cấu thành bởi sự lai tạo: sô cô la, tím oải hương, màu giống mèo Xiêm hoặc màu vân ticked không được chấp nhận bởi một số tiêu chuẩn giống (ví dụ, vân ticked được TICA chấp nhận). Màu phổ biến nhất của giống là màu nâu tabby. Tất cả các màu mắt được chấp nhận theo tiêu chuẩn giống, ngoại trừ mắt xanh hoặc chứng mắt khác màu nhau (loạn sắc tố mống mắt) ở những cá thể mèo không có lông trắng.

Thói quen
Maine Coon có một số thích nghi vật lý để sinh tồn ở vùng khí hậu mùa đông khắc nghiệt. Bộ lông dày chống nước của chúng có mặt dưới và phía sau dài và rậm hơn những chỗ khác để bảo vệ khi chúng di chuyển hoặc ngồi trên bề mặt ướt của tuyết hoặc băng. Cái đuôi dài và rậm giống gấu mèo của chúng có khả năng chống chìm trong tuyết, và có thể cuộn tròn quanh mặt và vai để giữ ấm và bảo vệ chúng khỏi gió và tuyết. Nó thậm chí có thể cuộn tròn quanh lưng giống như một chiếc đệm ngồi cách nhiệt khi ngồi xuống trên bề mặt đóng băng. Bàn chân lớn, và đặc biệt là bàn chân cực lớn của Polydactyl Maine Coon giúp chúng có thể đi bộ trên tuyết và thường được so sánh với giày đi tuyết. Những búi lông dài mọc giữa các ngón chân của chúng giúp giữ ấm cho các ngón chân và tiếp tục hỗ trợ khi di chuyển trên tuyết bằng cách tăng độ chống trơn trượt cho bàn chân mà không bị nặng nề hơn. Đôi tai rậm rạp với những búi lông dài mọc ra từ bên trong có thể giữ ấm dễ dàng hơn.
Tính cách
Maine Coon được gọi là “người khổng lồ hiền lành” và sở hữu trí thông minh trên mức trung bình, khiến chúng tương đối dễ huấn luyện. Chúng được biết đến là trung thành với gia đình và thận trọng nhưng không xấu tính với người lạ, nhưng độc lập và không bám víu. Maine Coon không phải là giống mèo thích ngồi lòng, nhưng do tính tình nhẹ nhàng khiến cho chúng thoải mái khi ở cạnh những con chó, những con mèo khác và trẻ em. Chúng có tính cách vui tươi, con đực có xu hướng vụng về hơn và những con cái sẽ có vẻ kiêu sa hơn, nhưng cả hai đều tình cảm như nhau. Nhiều Maine Coon có niềm đam mê với nước và một số suy đoán rằng đặc điểm tính cách này đến từ tổ tiên của chúng – giống mèo đã dành phần lớn thời gian cuộc đời ở trên tàu. Maine Coon cũng nổi tiếng là những con mèo hay kêu. Chúng được biết đến với tiếng ngoao thường xuyên hoặc tiếng hú, tiếng rít, tiếng ríu rít và tạo ra những tiếng kêu lớn khác.
Kích thước
Maine Coon là giống mèo nhà lớn nhất. Trung bình, con đực nặng từ 13 đến 18 lb (5,9 đến 8,2 kg), con cái nặng từ 8 đến 12 lb (3,6 đến 5,4 kg). Chiều cao của con trưởng thành có thể dao động trong khoảng từ 10 đến 16 inch (25 và 41 cm) và chúng có thể đạt chiều dài lên tới 48 inch (120 cm) nếu tính cả chiếc đuôi (khoảng 14 inch (36 cm)) dài, thon và nặng nề, gần giống như đuôi của một con gấu mèo. Cơ thể rắn chắc và cơ bắp – đặc điểm cần thiết để hỗ trợ trọng lượng của chúng, và ngực rộng. Maine Coon có khung người hình chữ nhật và chậm trưởng thành về thể chất; chúng thường không phát triển đến kích thước trọn vẹn cho đến ba đến năm tuổi, trong khi những con mèo khác mất khoảng một năm.
Vào năm 2010, Kỷ lục Guinness Thế giới đã chấp nhận một con Maine Coon thuần chủng có tên “Stewie” là “Con mèo dài nhất”, có kích thước 48,5 inch (123 cm) tính từ chóp mũi đến chóp đuôi. Stewie qua đời ngày 4 tháng 2 năm 2013 vì căn bệnh ung thư tại nhà riêng ở Reno, Nevada khi được 8 tuổi. Kể từ năm 2015, con mèo còn sống giữ kỷ lục “Con mèo dài nhất” là “Ludo”, có kích thước 3 ft 10,59 inch (118,33 cm). Nó sống ở Wakefield, Anh. Vào tháng 5 năm 2018, chú mèo Maine Coon “Barivel ” có số đo là 120 cm (3 ft 11,2 in), khiến nó trở thành con nắm giữ kỷ lục Guinness Thế Giới. Điều này đã được xác nhận vào ngày 22 tháng 5 năm 2018 bởi Sách Kỷ Lục Guinness.
Những con Maine Coon lớn có thể có chiều dài lớn hơn những con linh miêu Á-Âu, mặc dù chúng có khổ người bé hơn và chiều cao thấp hơn.









Chế độ ăn
Maine Coon cần một lượng protein và chất dinh dưỡng dồi dào trong chế độ ăn uống của chúng. Vì chúng là một giống mèo lớn với mức năng lượng cao, vì vậy nên cho chúng ăn thức ăn chất lượng. Những thực phẩm có thịt là thành phần đầu tiên là loại tốt nhất cho Maine Coon.
Sức khỏe
Dữ liệu bảo hiểm thú cưng thu được từ một cuộc nghiên cứu tiến hành trong những năm 2003 – 2006 ở Thụy Điển xác định tuổi thọ trung bình của Maine Coon là hơn 12,5 năm. 74% sống đến 10 năm hoặc nhiều hơn và 54% sống tới 12,5 năm trở lên. Maine Coon nói chung là một giống mèo khỏe mạnh và rắn rỏi, thích nghi để tồn tại trong điều kiện khí hậu đầy thách thức của New England. Mối đe dọa nghiêm trọng nhất là bệnh phì đại cơ ti mở mèo (HCM) – một căn bệnh tim phổ biến nhất ở mèo, cho dù thuần chủng hay không. Ở Maine Coon, chứng bệnh di truyền này được coi là một đặc điểm mang tính trội. Những cá thể từ trung niên trở lên và cá thể đực được cho là có xu hướng mắc bệnh. HCM là một bệnh tiến triển và có thể dẫn đến suy tim, tê liệt chân sau do thuyên tắc cục máu đông bắt nguồn từ tim và tử vong đột ngột.
Dịch vụ thử nghiệm có thể phát hiện ra yếu tố đột biến gây ra HCM ở Maine Coon. Trong tất cả các con Maine Coon được thử nghiệm đột biến MyBPC tại Phòng thí nghiệm Di truyền Tim mạch Thú y tại Đại học Thú y Đại học Bang Washington, khoảng một phần ba có kết quả xét nghiệm dương tính. Không phải tất cả những con mèo có kết quả xét nghiệm dương tính đều có dấu hiệu lâm sàng của bệnh và một số con mèo Maine Coon có bằng chứng lâm sàng của bệnh phì đại cơ tim lại có kết quả âm tính; điều này cho thấy rằng có thể có đột biến thứ hai tồn tại trong giống. Trong cuộc nghiên cứu này, tỷ lệ nhiễm HCM được xác định là 10,1% (95% CI 5,8 -14,3%). Tăng trưởng sớm và dinh dưỡng, kích thước cơ thể lớn hơn và béo phì có thể là yếu tố điều chỉnh môi trường của khuynh hướng di truyền của HCM.
Một vấn đề sức khỏe tiềm ẩn khác là teo cơ cột sống (SMA), bệnh di truyền gây ra thiếu hụt các tế bào thần kinh tủy sống kích hoạt các cơ xương của thân và tứ chi. Các triệu chứng thường xuất hiện trong vòng 3 đến 4 tháng tuổi và gây nên teo cơ, yếu cơ và tuổi thọ bị rút ngắn. Có thể phát hiện các gen gây ra SMA bằng thử nghiệm.
Chứng loạn sản xương hông là một triệu chứng bất thường của khớp hông, có thể gây tê liệt và viêm khớp. Những cá thể thường bị ảnh hưởng nhất thường là con đực của các giống mèo lớn, có xương lớn như mèo Ba Tư và Maine Coon. Những cá thể có kích thước và trọng lượng nhỏ hơn thường có các triệu chứng ít rõ rệt hơn. Ảnh chụp X-quang được gửi đến Tổ chức Chỉnh Hình Cho Động Vật (OFA) trong khoảng từ năm 1974 đến 2011 cho thấy 24,3% số Maine Coon trong cơ sở bị mắc chứng loạn sản. Maine Coon là giống mèo duy nhất được liệt kê trong cơ sở dữ liệu. Đăng ký chứng loạn sản xương hông (cộng đồng và tư nhân) được OFA thu thập đến tháng 4 năm 2015 cũng cho thấy có 2.732 con mèo mắc chứng loạn sản xương hông và có 2.708 con (99,1%) trong số đó là Maine Coon. Chứng loạn sản hai bên nghiêm trọng hơn các ca loạn sản một bên và có độ tuổi mắc bệnh lớn hơn.
Bệnh thận đa năng (PKD) là một chức bệnh di truyền ở mèo gây ra nhiều u nang (túi chất lỏng) được hình thành trong thận. Những u nang này xuất hiện từ khi cá thể mắc bệnh được sinh ra. Ban đầu chúng rất nhỏ, nhưng chúng phát triển lớn hơn theo thời gian và cuối cùng có thể phá vỡ chức năng thận, dẫn đến suy thận. Vì tỷ lệ mắc u nang thận ở Maine Coon rất ít, nên thuật ngữ PKD dường như không phù hợp để gắn với giống mèo này. Trong một cuộc nghiên cứu kéo dài 8 năm gần đây, bằng phương pháp siêu âm,đã phát hiện u nang ở 7 trên 187 con Maine Coon khỏe mạnh đăng ký tham gia chương trình sàng lọc trước sinh sản. Các u nang hầu hết là đơn thùy(6/7, 85,7%), nhỏ (đường kính trung bình 3,6 mm) và nằm ở chỗ nối corticomedullary (4/6, 66,7%), do đó các u nang này khác về kích thước, số lượng và vị trí so với những gì được quan sát được ở giống mèo Ba Tư. Trong cùng một nghiên cứu, ngoài việc cả sáu con mèo Maine Coon bị u nang thận đều cho kết quả âm tính với đột biến PKD1 và trình tự gen của chúng cũng không giống với giống mèo Ba Tư và các giống mèo có liên quan, chứng minh rằng bệnh ở Maine Coon không liên quan đến PKD ở mèo Ba Tư và các giống mèo khác. Do đó, bệnh PKD ở Maine Coon dường như đại diện cho một dạng bệnh thận vị sơ cấp, khác với AD-PKD. Nếu u nang thận xuất hiện nhưng không mang lại những thay đổi khác, thì chúng không có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống, vì những cá thể được theo dõi đã được báo cáo rằng còn sống và vẫn khỏe mạnh ở tuổi trưởng thành. Mặc dù bản chất và sự liên quan về mặt lâm sàng của u nang thận ở Maine Coon chưa được xác định, quá trình sàng lọc vẫn được khuyến nghị sử dụng để đánh giá trước khi sinh sản. Siêu âm hiện là phương pháp chẩn đoán hợp lệ duy nhất để phát hiện chứng bệnh này.
Nhiều con mèo Maine Coon nguyên thủy sống ở khu vực New England sở hữu một đặc điểm được gọi là chứng dị tật thừa ngón (thừa một hoặc nhiều ngón chân trên một bàn chân). Trong khi một số nguồn tin cho rằng đặc điểm này được cho là đã được bắt gặp ở khoảng 40% số Maine Coon tại Maine, có rất ít bằng chứng được đưa ra để chứng minh điều này. Chứng dị tật thừa ngón ở Maine Coon rất hiếm khi xuất hiện trong các cuộc thi trình diễn, vì nó là đặc điểm cấm theo tiêu chuẩn dự thi. Gen gây chứng dị tật thừa ngón là một gen trội tự phát đơn giản, không gây hại cho sức khỏe của mèo. Chứng dị tật thừa ngón ở mèo Maine Coon được biểu thị bởi sự đa dạng kiểu hình. Chứng dị tật thừa ngón không chỉ ảnh hưởng đến thứ hạng và các cuộc thi, mà còn ảnh hưởng đến kết cấu xương cổ tay và cổ chân. Đặc điểm này gần như đã bị xóa sổ khỏi giống do chúng là đặc điểm khiến chúng tự động bị loại khỏi các cuộc thi. Các tổ chức tư nhân và nhóm các nhà nhân giống đã được thành lập để bảo tồn chứng dị tật thừa ngón ở mèo Maine Coon.
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.