Linh miêu tai đen (Caracal) là một giống mèo hoang cỡ trung có nguồn gốc từ Châu Phi, Trung Đông, Trung Á và Ấn Độ. Đặc điểm ngoại hình đặc trưng của nó là vóc dáng tráng kiện, chân dài, khuôn mặt ngắn, hai tai có lông dài và răng nanh dài. Bộ lông của nó có màu nâu đỏ hoặc cát, phần bụng có màu nhạt hơn với các vệt nhỏ màu đỏ. Tính từ u vai, nó có thể cao tới 40 đến 50 cm (16 – 20 inch) và nặng từ 8 đến 18 kg (18 – 40 lb). Nó được mô tả khoa học lần đầu tiên bởi nhà tự nhiên học người Đức Johann Christian Daniel von Schreber vào năm 1776. Ba phân loài của chúng được công nhận kể từ năm 2017.
Linh miêu tai đen rất ẩn dật và khó quan sát, đặc biệt là về đêm. Chúng có bản năng bảo vệ lãnh thổ cao, và sống chủ yếu một mình hoặc theo cặp. Linh miêu tai đen là một động vật ăn thịt, thường săn các loài động vật có vú nhỏ, chim và động vật gặm nhấm. Nó có thể nhảy cao hơn 4 m (12 ft) và bắt chim giữa không trung. Nó rình rập con mồi cho đến khi có thể tiếp cận trong vòng 5 m (16 ft), sau đó nó xồ tới và giết chết con mồi bằng một phát cắn vào cổ họng hoặc sau gáy. Khi được một tuổi, cả con đực và cái đều phát triển toàn diện và có thể sinh sản. Thời kỳ mang thai kéo dài từ hai đến ba tháng và một lứa có thể có từ một đến sáu chú mèo con. Mèo con rời bỏ mẹ ở khi được chín đến mười tháng tuổi, mặc dù một vài cá thể cái vẫn ở lại với mẹ. Tuổi thọ trung bình của những cá thể linh miêu tai đen bị nuôi nhốt là gần 16 năm.
Linh miêu tai đen đã được thuần hóa và sử dụng để săn bắn từ thời Ai Cập cổ đại.
Linh miêu tai đen | |
![]() | |
Trạng thái bảo tồn Tuyệt chủng Báo động Ít bận tâm nhất | |
Phân loại khoa học | |
Giới | Animalia (Động vật) |
Ngành | Chordata (Dây sống) |
Lớp | Mammalia (Động vật có vú) |
Bộ | Carnivora (Động vật ăn thịt) |
Phân bộ | Feliformia (Dạng mèo) |
Họ | Felidae (Mèo) |
Phân họ | Felinae (Mèo) |
Chi | Caracal (Linh miêu) |
Loài | C. caracal (Linh miêu tai đen) |
Tên nhị thức | |
Caracal caracal (Schreber, 1776) | |
Phân loài ![]() | |
Đồng nghĩa | |
· C. aharonii (Matschie, 1912) · C. bengalensis (J. B. Fischer, 1829) · C. berberorum (Matschie, 1892) · C. coloniae (Thomas, 1926) · C. corylinus (Matschie, 1912) · C. medjerdae (Matschie, 1912) · C. melanotis (Gray, 1843) · C. melanotix (Gray, 1843) · C. michaelis (Heptner, 1945) · C. roothi (Roberts, 1926) · C. spatzi (Matschie, 1912) |
Phân loại học và phát sinh học
Vào năm 1776, Johann Christian Daniel von Schreber, người đã mô tả một bộ da báo đốm từ Mũi Hảo Vọng, đã đặt một cái tên khoa học cho giống này là Felis caracal. Năm 1843, nhà động vật học người Anh John Edward Gray đã xếp giống này vào chi Caracal. Nó được xếp vào họ Felidae và phân họ Felinae.
Trong thế kỷ 19 và 20, một số cá thể linh miêu tai đen đã được mô tả và đề xuất như là phân loài. Kể từ năm 2017, có ba phân loài được công nhận là hợp lệ:
- Linh miêu tai đen miền Nam (C. c. Caracal) (Schreber, 1776) –xuất hiện ở Nam và Đông Phi
- Linh miêu tai đen miền Bắc (C. c. Nubicus) (Fischer, 1829) – xuất hiện ở Bắc và Tây Phi
- Linh miêu tai đen Á châu (C. c. Schmitzi) (Matschie, 1912) –xuất hiện ở châu Á
Phát sinh học
Kết quả của một cuộc nghiên cứu phát sinh gen cho thấy rằng linh miêu tai đen và mèo vàng châu Phi (Caracal aurata) đã phân tách vào khoảng 2,93 và 1,19 triệu năm trước. Hai loài này cùng với linh miêu đồng cỏ (Leptailurus serval) tạo thành dòng giống Caracal, phân tách vào khoảng 11,56 đến 6,66 triệu năm trước. Tổ tiên của dòng giống này đã đến Châu Phi trong khoảng từ 8,5 đến 5,6 triệu năm trước.
Mối quan hệ của linh miêu tai đen được xem xét như sau:
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Từ nguyên học
Cái tên “Caracal” cấu tạo từ hai từ Thổ Nhĩ Kỳ: “kara” có nghĩa là màu đen và “kulak” có nghĩa là tai. Lần đầu tiên cái tên này được sử dụng là từ năm 1760. Linh miêu tai đen còn có tên khác là linh miêu Ba Tư (Persian Lynx). Từ “Lynx”trong tiếng Hy Lạp và La Mã có nghĩa là caracal và cái tên “lynx” đôi khi vẫn được áp dụng cho giống này, nhưng ngày nay, “Lynx” được coi là một loài riêng biệt.
Tên địa phương
Trong tiếng Tigrinya: ጭክኣንበሳ ch’ok anbessa có nghĩa là sư tử có râu.
Đặc điểm

Ngoại hình
Linh miêu tai đen là một con mèo mảnh khảnh, có kích thước vừa phải, đặc điểm đặc trưng là dáng người khỏe khoắn, khuôn mặt ngắn, răng nanh dài, tai có nhúm lông ở phía sau và chân dài. Nó có thể cao từ 40 đến 50 cm (16 – 20 inch); chiều dài từ đầu đến thân thường là 78 cm (31 inch) đối với con đực và 73 cm (29 inch) đối với con cái. Trong khi con đực nặng từ 12 đến 18 kg (26 – 40 lb) thì con cái nặng từ 8 đến 13 kg (18 con 29 lb). Đuôi màu nâu vàng, rậm rạp có chiều dài từ 26 đến 34 cm (10 – 13 inch) và kéo dài đến hông. Linh miêu tai đen là một loài dị hình lưỡng tính; con cái thường có các chỉ số thấp hơn con đực.
Các đặc điểm nổi bật trên khuôn mặt bao gồm các búi lông đen dài 4,5 cm đằng sau tai, hai sọc đen từ trán đến mũi, đường viền miệng màu đen, các vệt đen trên khuôn mặt và các mảng trắng xung quanh mắt và miệng . Đôi mắt hẹp do mí mắt trên bị sụp để che chắn mắt khỏi ánh sáng mặt trời. Các búi lông ở tai có thể rủ xuống khi chúng già đi. Bộ lông thường có màu nâu đỏ hoặc màu cát, và màu đen thường ít xuất hiện hơn. Phần bụng và phần phía trong của chân có màu nhạt hơn, thường có các vết nhỏ màu đỏ. Lông, mềm, ngắn và rậm, thô hơn vào mùa hè. Lớp lông lót mọc dày hơn vào mùa đông so với mùa hè. Chiều dài của lớp lông bảo vệ (lớp lông phủ ngoài) có thể dài tới 3 cm (1,2 inch) vào mùa đông, nhưng rút ngắn xuống còn 2 cm (0,8 inch) vào mùa hè. Những đặc điểm này là minh chứng cho thời kỳ thay lông trong mùa nóng, thường là vào tháng 10 và tháng 11. Chân sau dài hơn chân trước, do đó, cơ thể dốc xuống từ mông.
Linh miêu tai đen sở hữu những vệt đen đặc biệt trên khuôn mặt của chúng, và một số cá thể có thể có những vệt trông giống lông màu
Chi Caracal thường bị nhầm lẫn với Lynx, vì cả giống đều có tai có lông. Tuy nhiên, một điểm khác biệt đáng chú ý giữa hai loài này là Lynx có hoa văn đốm, trong khi Caracal thì không. Beo vàng châu Phi có tạng người tương tự như Linh miêu tai đen, nhưng lông tối màu hơn và không có búi lông sau tai. Có thể phân biệt Linh miêu đồng cỏ và Linh miêu tai đen vì nhờ búi lông sau tai, và các đặc điểm của Linh miêu đồng cỏ như đốm trắng sau tai, lông đốm, chân dài hơn, đuôi dài hơn và dấu chân nhỏ hơn.
Hộp sọ của Linh miêu tai đen cao và tròn, có bộ phận thính giác phát triển, xương chẩm phát triển tốt, xương đỉnh bình thường và hàm dưới khỏe. Linh miêu tai đen có tổng cộng 30 răng; công thức răng (nha thức) của chúng là. Cấu trúc răng sữa là . Những chiếc răng nanh có thể dài tới 2 cm (0,8 inch), nặng và sắc nhọn, được dùng để cắn chết con mồi. Linh miêu tai đen không có răng tiền hàm trên thứ hai, và các răng hàm trên có kích thước rất nhỏ. Bàn chân lớn giống như báo đốm, có bốn ngón ở chân sau và năm ngón ở chân trước.Ngón đầu tiên của chân trước luôn cao hơn mặt đất và là huyền đề. Móng vuốt sắc và có thể thu vào (có thể được rút ra); móng ở chân sau lớn hơn nhưng không cong bằng chân trước.
Sinh thái và hành vi

Linh miêu tai đen thường hoạt động vào ban đêm, mặc dù một số hoạt động có thể được quan sát vào ban ngày. Tuy nhiên, chúng rất ẩn dật và khó quan sát nên hoạt động ban ngày của chúng có thể không được chú ý. Một cuộc nghiên cứu ở Nam Phi cho thấy Linh miêu tai đen hoạt động mạnh nhất khi nhiệt độ không khí giảm xuống dưới 20 °C (68 °F); hoạt động thường giảm đi khi nhiệt độ tăng cao hơn. Linh miêu tai đen là một giống mèo đơn độc, chủ yếu sống một mình hoặc theo cặp; nhóm duy nhất được hình thành là những linh miêu mẹ và con cái của chúng. Con cái khi ở thời kỳ động dục sẽ tạm thời cặp với con đực. Là động vật có bản năng bảo vệ lãnh thổ cao, Linh miêu tai đen thường đánh dấu các tảng đá và cây cối trong phần lãnh thổ của nó bằng nước tiểu, có thể là bằng phân và không cần phủ đất lên. Đa số, chúng thường đánh dấu bằng vết cào móng, dùng phân không phải là cách được ưa chuộng. Ở Israel, con đực có lãnh thổ trung bình vào khoảng (85 dặm vuông), trong khi con cái trung bình là (22 dặm vuông). Ở Ả Rập Saudi, diện tích lãnh thổ của các con đực có thể thay đổi trong khoảng từ 270 đến 1.116 (104 – 431 dặm vuông). Trong Công viên quốc gia Mountain Zebra (Nam Phi), diện tích lãnh thổ của các con cái vào khoảng 4 đến 6.5 (1,5 và 2,5 dặm vuông). Các vùng lãnh thổ này có thể chồng chéo lên nhau. Các búi lông sau tai và các hoa văn trên khuôn mặt thường đóng vai trò như một phương pháp giao tiếp bằng hình ảnh; Linh miêu tai đen có thể tương tác với nhau bằng cách lắc đầu đầu từ bên này sang bên kia để các búi lông động đậy. Giống như những con mèo khác, chúng có thể kêu meo, gầm gừ, rít, gừ gừ.
Chế độ ăn uống và săn mồi

Là một động vật ăn thịt, Linh miêu tai đen thường săn bắt các động vật có vú nhỏ, chim và động vật gặm nhấm. Các nghiên cứu ở Nam Phi đã báo cáo rằng nó có thể săn linh dương đồng cỏ Cape, linh dương Nam Phi, cừu, dê, chuột Karoo, đa man đá, thỏ rừng và chim. Một cuộc nghiên cứu ở miền tây Ấn Độ cho thấy loài gặm nhấm chiếm một phần đáng kể trong chế độ ăn uống của giống mèo này. Chúng sẽ kiếm ăn từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng có xu hướng tập trung vào nguồn dồi dào nhất. Thỉnh thoảng, chúng cũng sẽ ăn cỏ và nho để làm sạch hệ thống miễn dịch và dạ dày khỏi ký sinh trùng nào. Các loài linh dương lớn hơn như linh dương cuddu, sơn dương vằn, linh dương chân đen, dê mía núi và linh dương Nam Phi cũng có thể trở thành mục tiêu. Động vật có vú thường chiếm ít nhất 80% khẩu phần ăn. Thằn lằn, rắn và côn trùng thường xuyên bị ăn. Chúng khét tiếng vì tấn công gia súc, nhưng hiếm khi tấn công con người.
Tốc độ và sự nhanh nhẹn khiến nó trở thành một thợ săn hiệu quả, có thể hạ gục con mồi to gấp hai đến ba lần kích thước của nó. Chân sau khỏe giúp chúng có thể nhảy cao hơn 3 m (10 ft) trong không khí để tóm được cánh chim. Chúng thậm chí có thể quay người và thay đổi phương hướng giữa không trung. Chúng leo trèo rất khéo léo. Chúng rình rập con mồi cho đến khi ở trong vòng 5 m (16 ft), sau đó nó có thể phóng người tấn công. Trong khi những con mồi lớn như linh dương bị nghẹt thở do bị cắn ở cổ họng, những con mồi nhỏ hơn sẽ bị giết bởi một vết cắn sau gáy. Những con mồi được ăn ngay lập tức, và ít được được để giành. Chúng sẽ trở lại để săn các con mồi lớn hơn nếu không bị phá rối. Chúng có thể tấn công linh dương ở thân sau. Chúng có thể ăn xác động vật thối, mặc dù điều này không được quan sát thường xuyên. Chúng thường phải cạnh tranh với cáo, sói, báo và linh cẩu để kiếm con mồi.
Sinh sản

Cả hai giới đều có thể sinh sản khi chúng được một tuổi; quá trình tạo giao tử có thể bắt đầu khi chúng được bảy đến mười tháng tuổi. Tuy nhiên, chúng chỉ giao phối thành công khi được 12 đến 15 tháng tuổi. Chúng có thể sinh sản trong suốt cả năm. Thời kỳ động dục kéo dài từ một đến ba ngày, lặp lại sau hai tuần trừ khi con cái mang thai. Con cái trong thời kỳ động dục sẽ đánh dấu lãnh thổ bằng nước tiểu nhiều hơn và hình thành các cặp tạm thời với con đực. Quá trình giao phối ở giống này chưa được nghiên cứu rộng rãi; qua quan sát, sự giao hợp kéo dài trung bình gần bốn phút, bắt đầu bằng việc con đực ngửi thấy những vùng nước tiểu được đánh dấu bởi con cái đang nằm trên mặt đất. Theo đó, con đực tiếp cận và tiến hành giao hợp. Các cặp tách ra sau khi giao hợp.
Quá trình mang thai kéo dài khoảng hai đến ba tháng, một lứa đẻ thường giao động trong khoảng từ một đến sáu con con. Mùa sinh sản cao điểm thường vào khoảng tháng Mười đến tháng Hai. Chúng thường sinh con ở những nơi cây cối rậm rạp hoặc các hang động bỏ hoang của lợn đất và nhím. Mèo con được sinh ra với đôi mắt và đôi tai khép lại và móng vuốt không thể thu vào bên trong; bộ lông giống như giống như các con trưởng thành, nhưng bụng lại có đốm. Chúng sẽ mở mắt sau mười ngày, nhưng phải mất nhiều thời gian hơn để tầm nhìn trở nên bình thường. Đôi tai dần dựng lên và móng vuốt có thể thu lại vào tuần thứ ba hoặc thứ tư. Cũng trong khoảng thời gian đó, những chú mèo con bắt đầu đi lại quanh nơi sinh của chúng và bắt đầu chơi với nhau vào tuần thứ năm hoặc thứ sáu. Chúng bắt đầu ăn thức ăn rắn cùng một lúc; sau gần ba tháng, chúng có thể bắt đầu đi săn mồi. Khi mèo con bắt đầu tự chuyển động, con mẹ sẽ bắt đầu di chuyển chúng mỗi ngày. Tất cả các răng sữa sẽ xuất hiện sau 50 ngày, và răng vĩnh viễn được hoàn thành trong 10 tháng. Khi đến chín đến mười tháng tuổi, chúng bắt đầu tách mẹ, mặc dù một vài con cái vẫn ở lại. Tuổi thọ trung bình của Linh miêu tai đen trong điều kiện nuôi nhốt là gần 16 năm.
Vào những năm 1990, một con Linh miêu tai đen bị giam cầm tự nhiên giao phối với một con mèo nhà trong Sở thú Moscow, đẻ ra con lai thuộc họ mèo.
Các mối đe dọa
Linh miêu tai đen được liệt kê là vào hạng “Cần ít sự quan tâm nhất” trong Danh sách đỏ của IUCN kể từ năm 2002, vì nó được phân bổ rộng rãi ở hơn 50 quốc gia, trong đó các mối đe dọa đối với quần thể Linh miêu tai đen khác nhau ở nhiều mức độ. Mất môi trường sống do mở rộng nông nghiệp, xây dựng đường xá và khu định cư là mối đe dọa lớn ở tất cả các quốc gia. Giống này được cho là gần tuyệt chủng ở Bắc Phi, đang bị đe dọa nghiêm trọng ở Pakistan, có nguy cơ tuyệt chủng ở Jordan, nhưng ổn định ở miền trung và Nam Phi. Người dân địa phương giết Linh miêu tai đen để bảo vệ gia súc, hoặc để trả thù cho việc chúng săn bắt gia súc nhỏ. Ngoài ra, chúng bị đe dọa bởi việc săn bắt, buôn bán làm thú cưng trên Bán đảo Ả Rập. Ở Thổ Nhĩ Kỳ và Iran, các vụ thảm sát thường xuyên bị giết trong các vụ tai nạn đường bộ. [1] Ở Uzbekistan, mối đe dọa lớn đối với Linh miêu tai đen là những người chăn gia súc, họ giết chúng để trả thù cho những đàn gia súc bị chúng săn bắt. Kỹ thuật bảo vệ và chuồng trại không đủ để bảo vệ những đàn gia súc nhỏ như dê và cừu khỏi bị kẻ thù tấn công. Ngoài ra, tương tự như Ethiopia, những con đường giao thông đông đúc đi qua môi trường sống Linh miêu tai đen là mối đe dọa tiềm tàng cho loài này.
Bảo tồn
Các quần thể Linh miêu tai đen châu Phi được liệt kê theo Phụ lục II của CITES, trong khi các quần thể châu Á thuộc Phụ lục I. Việc săn bắn Linh miêu tai đen bị cấm ở Afghanistan, Algeria, Ai Cập, Ấn Độ, Iran, Israel, Jordan, Kazakhstan, Lebanon, Morocco, Pakistan, Syria, Tajikistan , Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ, Turkmenistan và Uzbekistan. Ở Namibia và Nam Phi, chúng được coi là “động vật gây tổn hại” và được phép săn bắn để bảo vệ gia súc. Linh miêu tai đen sống ở một số khu vực được bảo vệ theo phạm vi của chúng.
Linh miêu tai đen Trung Á được liệt kê là cực kỳ nguy cấp ở Uzbekistan từ năm 2009 và ở Kazakhstan kể từ năm 2010.

Trong văn hóa
Các hoàng đế Trung Quốc đã sử dụng Linh miêu tai đen làm quà tặng. Vào thế kỷ 13 và 14, các vị vua cai trị triều đại nhà Nguyên đã mua rất nhiều linh miêu tai đen, báo gấm và hổ từ các thương nhân Hồi giáo ở phía tây bằng vàng, bạc, tiền mặt và lụa. Theo Ming Shilu, triều đại nhà Minh sau đó vẫn tiếp tục tập tục này. Cho đến gần thế kỷ 20, Linh miêu tai đen đã được các vị vua Ấn Độ sử dụng trong những trò chơi săn bắn động vật nhỏ, trong khi báo được sử dụng cho những con mồi lớn hơn. Vào thời đó, linh miêu được cho tiếp xúc với một đàn bồ câu và mọi người sẽ đặt cược con nào sẽ giết được nhiều chim bồ câu nhất. Đó có lẽ là khởi nguồn của câu thành ngữ “thả mèo giữa bầy bồ câu”.
Linh miêu tai đen dường như có ý nghĩa tôn giáo trong văn hóa Ai Cập, vì nó được xuất hiện trong các bức tranh, các bức tượng nhỏ bằng đồng và các tác phẩm điêu khắc được cho là để bảo vệ ngôi mộ của các pha-ra-ông. Người ta cũng phát hiện những con linh miêu tai đen được ướp xác. Da của chúng được sử dụng để làm áo khoác lông thú.
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.